Modul 2 - Sự thành lập ngành hóa

  • Xét về tính chất đơn chất, phân tử nhỏ nhất được gọi là nguyên tử. Một nguyên tử rất nhỏ, một tấm sắt dày một micromet sẽ dày 4300 nguyên tử. Những nguyên tử này phối hợp để tạo thành 92 nguyên tố dựa trên tự nhiên, tên Latinh cho các nguyên tố này được rút ngắn lại thành một hay hai chữ cái. Ví dụ như: O: Oxy, C: Carbon, S: Lưu huỳnh, Hg: Thủy ngân, Fe; Sắt, Pb: Chì. Các nguyên tố này được liệt kê trong bảng tuần hoàn còn những nguyên tố được liệt kê trong các cột thẳng đứng thì xử lý tương tự như trong một giác quan hóa học.

    Những nguyên tử của những nguyên tố khác nhau thì khác nhau về trọng lượng, kích cỡ và cách xử lý. Các nguyên tử được sắp xếp lượng mà các vật tích điện khác nhau hay các phân tử trung tính. Một nguyên tử gồm một hạt nhân có chứa các nguyên tử nặng một cách tương đối, vài nguyên tử có chứa Proton mang điện tích dương và một số khác thì trung tính chứa Notron. Có một loại có thể quay xung quanh hạt nhân mang điện tích âm gọi là các Electron.

    Các Electron thì có sự vân động cố định về Nucleuic và dung tích hình cầu gồ ghề mà trong đó chúng di chuyển là dung tích của nguyên tử. Các vật tích điện ở Proton và Electron thì bằng nhau, nhưng đối nhau về ký hiệu. Lượng Electron được cân bằng chính xác nhờ các Proton, vì thế các nguyên tử trung tính về dòng điện. Lượng nguyên tử của một nguyên tố là lượng Proton (hay Electron) trong một nguyên tử của nguyên tố đó.

    Bản chất không phải là những nguyên tố mà là các hợp chất. Một hợp chất bao gồm hai hay nhiều nguyên tử liên kết với nhau nhờ các nhánh hóa học. Hợp chất giống nguyên tố có thể được miêu tả bằng biểu tượng. Như nước, H­­2O chứa hai nguyên tử Hydro và một nguyên tử Oxy trong phân tử. Biểu tượng này mô tả trong công thức hóa học.

    Một hỗn hợp nguyên tố có nhánh hóa học giữa các loại nguyên tử khác nhau thì không phải là một hợp chất. Hỗn hợp thường có thể được tách ra nhờ các phương pháp vật lý đơn giản. Tỉ lệ nguyên tử trong một hỗn hợp có thể khác nhau nhiều từ mẫu cho đến mẫu, trong một hợp chất mang lại thì tỉ lệ luôn luôn giống nhau.

    Bất kỳ ở nhiệt độ phân tử nào, bất cứ bản chất nào thuộc về thể rắn, thể lỏng hay thể khí. Nếu nhiệt độ khác nhau thì bản chất có thể trải qua cả ba trạng thái này. Các phân tử đồng nhất có các lực hút với một phân tử khác ở phạm vi kín. Tất cả các phân tử này có năng lượng nhận được ttừ xung quanh chúng trong trạng thái nhiệt; ánh sáng hay sự bức xạ trong sự va chạm của phân tử. Các phân tử có dạng trạng thái vận động cố định như là kết quả năng lượng mà chúng có.

    Trong trạng thái rắn, các lực hút đủ mạnh để vượt qua sự vận động của các phân tử. Vì thế chúng được đóng gói kín theo một sự sắp xếp trật tự. Tuy nhiên chúng di chuyển nhờ sự rung động về phía sau và phía trước. Khi trạng thái rằn được đốt nóng, sự rung động trở nên mãnh liệt hơn cho đến khi các phân tử có đủ năng lượng để vượt qua các lực hút, phần nguyên tử bị phá vỡ và thể rắn tan chảy.

    TRẠNG THÁI THỂ LỎNG:

    Mặc dù các phân tử có thể chuyển động, chúng vẫn khít với nhau và các lực hút ngăn cản sự trốn thoát hoàn toàn. Các phân tử ở bề mặt chất lỏng không bị hút theo mọi hướng, thỉnh thoảng chỉ có các phân tử khí và một ít kéo theo hướng này. Các lực hút có xu hướng kéo các phân tử bề mặt với nhau và hướng về tâm thể lỏng. Thể lỏng xử lý như thể nó có vỏ bọc ngoài và các phân tử bề mặt được mô tả dưới dạng trạng thái căng của bề mặt. Sức căng bề mặt được biểu thị Dynes trên cm. H­­­­­­­2O = 73 dynes / cm, Xylene = 30, N – Hexane = 18. Vì thế một đinh ghim có thể thả trôi trong nước chứ không xảy ra trong Hexane.

    VẼ HÌNH TRANG2/2.

    Độ nhớt là một sự đo lường sức kháng cự mà ở đằng sau độ bóng mướt của chất lỏng. Sự chuyển động của một phân tử được ở đằng sau bởi:

    a)     Sự va chạm với các phân tử khác.

    b)    Sự vướng vào với các phân tử khác (do hình dạng không đều).

    c)     Sự hút của các phân tử khác trong tính nhớt.                 

                                                                                                         Stress

    Độ nhớt được đo trong thế cân bằng và là phép đo = __________________

                                                                                                    Tỉ lệ cắt xén

    Độ nhớt thay đổi có thể thấy được với sự thay đổi nhiệt độ nhỏ. Nhiệt độ tăng thêm năng lượng, phân tử chuyển động nhanh hơn có thể vượt qua lực hút của các phân tử kề cận, độ bóng mướt dễ dàng và độ nhớt sẽ nhỏ giọt.

    Khi nhiệt độ tăng lên, năng lượng phân phối không đồng đều giữa các phân tử. Vì thế tại bề mặt vài phân tử đang chuyển động nhanh đủ để thoát khỏi sự hút của các phân tử kề cận và bay vào không khí, điều này được biết như là một sự bay hơi.

    Cuối cùng, tất cả bề mặt phân tử thoát ra một cách sẵn sàng và sự sôi sảy ra. Ở trạng thái khí, các phân tử có khoảng cách rộng và di chuyển trong đường thẳng ở vài trăm dặm trong một giờ. Vì thế lực hút đến tương tác nhờ sự bắt gặp tình cờ của các phân tử. Nhiệt độ cao, các phân tử có nhiều năng lượng. Chúng chuyển động nhanh hơn và va chạm nhiều do đó áp suất khí tăng lên theo nhiệt độ.

    DUNG DỊCH (SỰ HÒA TAN):

    Nếu một chất rắn và một chất lỏng được pha trộn thì một trong ba điều có thể xảy ra.

    (a)   Nếu sức hút giữa chất lỏng và chất rắn ít hơn giữa các phân tử rắn, chất lỏng sẽ hút không nhiều các phân tử rắn riêng rẽ từ một phân tử khác. các phân tử này sẽ bị phân tán trong chất lỏng nhờ sự rung. Kết quả là hiện tượng “Treo” các phân tử rắn xảy ra mà cuối cùng chúng sẽ ổn định trong dạng ứ động.

    (b)  Nếu có một sức hút giữa các phân tử rắn và lỏng, các phân tử lỏng sẽ thâm nhập vào trong cấu trúc rn và các phân tử rắn sẽ thoát ra và trộn lẫn với các phân tử lỏng. Cuối cùng chất rắn hòa tan và dung dịch được tạo thành.

    (c)   Phản ứng hóa học có thể xảy ra mà sẽ hòa tan trong một chất lỏng để tạo thành một dung dịch, việc tăng nhiệt độ thường gia tăng tính hòa tan (lượng mà sẽ hòa tan). Một dung dịch có chứa lượng chất cứng tối đa được biết như là dung dịch được bảo hòa.

    HIỆN TƯỢNG “TREO’ (ĐÌNH CHỈ, THỂ VẨN) :

    Nếu các phân tử trong dung dịch là rất nhỏ cỡ 0, 4 micromet hoặc nhỏ hơn. Khi các phân tử ổn định, chúng luôn luôn bị tấn công bởi các phân tử lỏng mà có trong sự vận động liên tục. Sự va chạm không ảnh hưởng đến các phân tử lớn nhưng các phân tử nhỏ phản ứng yếu ớt và tần số xuất hiện của sự va chạm khiến chúng thay đổi quá trình diễn biến và đi theo con đường hình chữ chi, được biết như là một sự chuyển động Brownian. Sự chuyển động tình cờ làm trở ngại sự ổn định.

    Phân tử bề mặt cũng có thể để trần vật tích điện. Khi hai phân tử đến sát với nhau thì vật mang điện đẩy vật tích điện khác, điều này cũng cản trở sự ổn định. Các phân tử mịn được biết là trong trạng thái keo. Hiện tượng “Treo” của chất keo có thể ổn định tột cùng và kháng cự được việc thiết lập trong thời gian dài.

    Dạng khác của sự phân tán chất keo có thể được tạo từ hai chất lỏng mà sẽ không pha trộn. Sự lay động sẽ phân tán một trong hai chất lỏng như những giọt nhỏ mịn trong vật khác, sản phẩm là một nhủ tương. Nhủ tương có thể rất ổn định nếu như những giọt nhỏ bị phân tán được tích điện hoặc có Surfactant bị hấp thụ tại bề mặt của chúng. Sữa là một nhủ tương chất béo trong nước.

    VẼ HÌNH TRANG 2/4.

    NHÁNH HÓA HỌC:

    Tất cả các hóa chất được dính chặt với nhau nhờ các nhánh hóa học và bản tính của các nhánh hóa học này và các loại hóa chất mà mang lại đặc tính thành phần chất, các nhánh khác thì thay đổi cường độ, tính dẻo và phản ứng trong công nghiệp sơn.

    Việc chế tạo Resin là đề cập đến việc tạo các nhánh phải. Quá trình làm khô sơn kiểm soát sự thành lập các nhánh hóa học và sự tan vỡ của sơn thường là việc phá vỡ các nhánh hóa học bởi ánh sáng UV. Màu của Pigment được sản xuất bởi loại nhánh và năng lượng được tạo ra trong các nhánh.

    Các nguyên tố trong bảng tuần hoàn được sắp xếp trong nhóm 1 đến 7, các nhóm này chỉ định lượng Electron có thể dùng được trong việc phân nhánh. Tất cả các nguyên tố (riêng về Hydro và Heli) có một hình dạng ổn định gồm 8 Electron ở phía ngoài cùng, gần đủ để được xem như là trà trộn với nguyên tố đó. Điều này có thể đạt được nhờ việc quan sát các nguyên tố nhóm 1 và có thể từ bỏ 1 Electron và các nguyên tố nhóm 7  thì có thể chấp nhận 1 Electron. Vì thế việc tạo thành một nhánh Ion được thể hiện rõ nhất bởi phản ứng của Na (Sodium) và Cl (Chlorine). Nếu hai nguyên tố này được pha trộn thì một phản ứng mãnh liệt xảy ra và Clorua Natri (muối NaCl) được hình thành.

    Phản ứng được mô tả trong các phương trình hóa học: Na+ Cl            NaCl. Tại đó Natri và Clo là những chất phản ứng được thêm cùng với nhau và mũi tên chỉ định phương phản ứng và Na, Cl là các sản phẩm của phản ứng.

    Các nguyên tố của nhóm 3,4,5 và 6 khó để mà từ bỏ hay chấp nhận đủ các Electron để đạt được trạng thái hình dạng ổn định với 8 Electron nhưng lại dễ dàng chia xẻ các Electron của chúng. Quá trình này được mô tả như là loại nhánh CO – Valent và có lẽ được mô tả bởi phản ứng Carbon và Hydro để tạo thành CH4 Metan. Cacbon có 4 Electron và chia cho 4 Electron Hydro. Hydro có một Electron và chia cho một Electron Cacbon. Phản ứng có thể được mô tả:

                   Chất xúc tác Platin 

    C + 4H                                                CH4

    Một nguyên tử Carbon cộng với 4 nguyên tử Hydro, phản ứng với sự có mặt của chất xúc tác Platin để tạo thành Metan , mà có thể thể hiện như sau :

                      H

                       |   

    H_ C _H           Mỗi _ Đại diện một nhánh hóa học.

                       |

                      H

    Một phương trình hóa học cho biết có bao nhiêu nguyên tử của mỗi chất được đòi hỏi và có bao nhiêu nguyên tử được tạo ra, trong một phương trình hai bên phải cân bằng. Trong một phản ứng hóa học được tạo ra hay bị hủy đi thì nó được chuyển hoán đơn giảntrong vài điều khác nữa. Việc đốt cháy Carbon biến mất nhờ sự chuyển đổi trong khí đốt trong suốt.

    VẼ HÌNH TRANG 2/6 + 2/7.

                            C + O2                   CO 2                                                                                            

    Một nguyên tử C cộng với hai nguyên tử Oxy tạo thành một phân tử Dioxyt Cacbon.

    Số nhánh phản ứng các thành phần vật chất của các phân tử có thể được nhìn thấy từ các Hydro Cacbon đơn.

    Tên:                 Công thức:                                                                  Sôi ở nhiệt độ o c :

    Metan              CH4                                                                                         -162

    Etan                 CH3–CH3                                                                                 -89

    Propane           CH3 –CH2 –CH3                                                                      -42

    Butan              CH3 –CH2 –CH2 –CH3                                                               -1

    Pentan             CH3 –CH2 –CH2 –CH2 –CH3                                                   36

    Hexane            CH3 –CH2 –CH2 –CH2 –CH2 –CH3                                        69

    Heptan            CH3 –CH2 –CH2 –CH2 –CH2 –CH2 –CH3                              126

    Theo cách tương tự của loại nhó chức, vị trí nhóm chức và loại nhánh sẽ ảnh hưởng các thành phần vật chất và hóa học.

    Có một loại nhánh yếu khác đem lại manh mối tại sao vài dung môi làm việc tốt hơn các dung môi khác và đó là nhánh Hydro. Trong phân tử nước có một sự cân bằng nhẹ trong các vật tích điện với Oxy tích điện âm và Hydro tích điện dương.

                _            +           _           +             _             +

                O_____ H _ _ _ O_____ H            O _____ H

                 |                         |                           |

     H+                     H+                         H+

    Điều này dẫn đến một nhánh yếu giữa các vật tích điện dương và âm. Bây giờ nhánh phụ này sẽ đòi hỏi thêm năng lượng nhiệt để bẻ gãy nhánh được phép sôi. Vì thế nước sôi ở 100oc trong khi đó Hydro Sunfid (H2S) sôi ở nhiệt độ cao hơn -61oc (do Sunfua nặng hơn Oxy).

    Cuộc sống như chúng ta biết sẽ không tồn tại khong có nhánh Hydro yếu này, thì nước sẽ sôi khoảng –50o c.

    Hóa vô cơ là lĩnh vực nghiên cứ tất cả các nguyên tố ngoại trừ Carbon. Phản ứng quan trọng nhất của hóa vô cơ có liên quan đến các phản ứng Hydro, Oxy, Nitro.

    Nhiều Pigment vô cơ được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp sơn. Chúng bao gồm Titan Dioxyt (TiO2) , các Oxyt đỏ, vàng, đen của sắt, phấn và Mica được sử dụng như chất thêm vào.

    Hóa hữu cơ là lĩnh vực nghiên cứu các hợp chất Carbon với các nguyên tố chính có liên quan với Carbon đó là Hydro, Oxy và Nitro.

    Nhiều vật liệu thô được sử dụng dựa vào quà trình cất phân đoạn của dầu thô mà được tách ra bởi phạm vi sôi của chúng hầu như tất cả dung môi, xăng và chất pha loãng được lọc trong các sản phẩm hoặc phản ứng để tạo ra các thành phần hóa chất đã yêu cầu. Vài Resin được dạ trên dầu lửa như Acrylic và Polyester.

    Phương cách mà các nhánh hóa học nắm giữ các nguyên tố cùng với nhau mang lại hợp chất với các thành phần vật chất khác nhau và có thể được nhìn thấy từ Pentane mà nó có điểm sôi khác nhau đối với chuỗi thẳng Pentane Iso – Pentane và Cyclo Pentane.

                                        BẢNG I:

     

                            Chất đồng phân của Pentane C5H12                           Điểm sôi

    Pentane                       CH3 –CH2 –CH2 –CH2 –CH3                                            36

    Iso – Pentane              CH3 –CH –CH2 –CH3                                                       28

                                                     |

                                        CH3

    NCO – Pantane                                   CH3

                                                       |

                                            CH3 _C _ CH3                                                                 9

                                                        |

                                                      CH3  

    Cyclo – Pentane                                              CH2

                                                                         /            \

                                                                      CH2         CH2                                        50

                                                                          \             /

                                                                        CH2 – CH2                     

    Tương tự, số nhánh ảnh hưởng đến các thành phần vật chất của nó.

                                                   

                                                                                                                Điểm sôi

    Alkane Propane          CH3 –CH2 –CH3                                                            -42oc

    Alkene Propane          CH3 –CH = CH2                                                             -48oc

    Alkyne Propane          CH3 –C h CH                                                                  -23oc 

     

                                                    BẢNG II:

                            SỰ PHÂN ĐOẠN CỦA DẦU THÔ

    Tỉ lệ sôi oc:      Phân đoạn:                   Thành phần C:          Sử dụng:

    0 – 20              Khí đốt tự nhiên                C1 - C4                         Khí đốt tự nhiên

    20 – 100          Xăng nhẹ                          C5 - C7                         Dung môi

    70 – 90            Benzine                            C6 - C7                         Dry Cleaning

    80 – 100          Ligrion                              C6 - C8                         Dung môi

    70 – 200          Xăng                                C6 - C 11                      Motor Fuel

    200 – 300        Paraffin Oil (Kerosine)    C12 – C16                     Lighting

    Above 300      Gas Oil (Heavy Oil)         C12 - C18                      Fuel Oil

                            Lubricating Oil                C16 - C20                      Lubricants

                            Grease Vaseline             C18 - C22                     Pharmaceutical

                            Paraffin Wax                   C20 - C30                     Candles Wax Paper

                            Residues (Butumen)      C30 - C40                      Asphalt Tar

      TÌNH TRẠNG RẮN:

    Các vật chất đơn tách ra khỏi dung dịch trong quá trình làm nguội như những đồ thủy tinh. Những đồ thủy tinh này có điểm tan chảy đột ngột, đánh dấu đường ranh giới chính xác giữa chất rắn và chất lỏng.

    Hình dạng của thủy tinh là do mẫu là trong đó các ion nguyên tử hay các phân tử được sắp xếp. Vì thế thủy tinh của muối thường luôn luôn là hình khối.

    Carbon được phân thành bốn nguyên tử Carbon khác trong một sự sắp xếp chuẩn, tạo thành hình dạng kim cương rất đặc. Trong nhiều chất rắn, các phân tử không được sắp xếp trong bất kỳ mẫu nào cả. Thay vì chúng có chứa sự sắp xếp tình cờ của các phân tử đặc trưng của chất lỏng mà nó xuất hiện để trở nên “Đông lại” như chất rắn do làm nguội.

    Không có mẫu phân tử nào, điều này được biết như là chất rắn vô định hình (không có hình dạng). Các phân tử dần dần trở nên chậm chạp hơn và bị hút đến gần phân tử khác, cho đến khi chúng được đóng kín lại đến nổi mà chúng làm trở ngại hoàn toàn một phân tử khác và vật chất sẽ không chảy. Dễ dàng nói chính xác khi điều này xảy ra.

    Ví dụ như chất rắn vô định hình là kính, nhựa đường, chất gôm tự nhiên và Resin, như các Resin tạo nên tảng sơn ban đầu. Đó là tính vô định hình liên tục làm cho lớp sơn Resin cực kỳ phù hợp vớicác bề mặt bảo vệ.

    VẼ HÌNH TRANG 2/10.

    CÁC PHÂN TỬ KHỔNG LỒ :

    Các Resin Synthetic là Polymer, Poly – mer có nghĩa là nhiều thành phần. Các phân tử khổng lồ nhân tạo được tạo thành do các phân tử nhỏ hơn nối kết với nhau (các phân tử đơn thể được chỉ định) thường xuyên theo một kiểu, giống như mắc nối trong một chuỗi và quá trình đó được gọi là sự trùng hợp. Các Polymer được phân loại theo cách mà trong đó các phân tử đơn thể nối kết với nhau.

    Thêm vào Polymer, hợp chất có hai nhánh đôi như Ethene được biết al chưa bảo hòa do đó chúng có thể tham gia vào các phản ứng  để tạo thành hai nhánh đơn mới.

                      . . . + CH2 = CH2 – CH2   = CH2 + CH2 = CH2 =  . . . Ethene                             

                       _ CH2 _ CH2 _ CH2   _ CH2 _ CH2 _ CH2 _       Polyethene                 

    Polyethene hay thường được biết là Polythene, các điều kiện cẩn thận cần thiết cho phản ứng xảy ra, áp xuất cao, nhiệt độ cao, chất xúc tác Platin.

    Các Polymer khác được tạo từ sự trùng hợp thêm vào:

    CF2 = CF2                                           CF _ CF _ P.T.F.E

    Tetra Flouroethene

    CH2 = CH _ O _ CO _ CH3                P.V.A (Polyvinyl Acetate)

    Vinyl Acetate

    CH2 = CH Cl                                       P.V.C (Polyvinyl Chloride)

    Vinyl Chloride

    CH2 = C (CH3) _ CO _ O _ CH3       Polymethyl Methacrylate (Perspex)

    Methyl Methacrylate

    Thường thì đơn thể (hợp chất khởi đầu) là một chất lỏng có thể bị trùng hợp do người đầu tiên sử dụng, nó tạo ra gốc tự do mà gốc này có khả năng tiềm tàng phá vỡ một trong những nhánh đôi và gây nên chuỗi phản ứng xuất hiện.

    Hóa chất hữu cơ Peroxide cũng được sử dụng. Chiều dài của chuỗi Polymer có thể do lượng người đầu tiên sử dụng điều khiển và những chất trung gian chuyển tiếp của chuỗi cũng được sử dụng (thường Hydro được sử dụng để tăng gốc tự do).

    Kích cỡ phân tử Polymer được mô tả bởi trọng lượng phân tử của nó. Nếu một nguyên tử Hydro là 1, Carbon là 12, Nitrơ là 14, Oxy là 16 và v.v. Trọng lượng phân tử được phát hiện ra là do việc thêm vào giữa trọng lượng nguyên tử của tất cả nguyên tử trong phân tử. Trọng lượng một phân tử có thể thay đổi từ 1000 đến 1 triệu, Ethylene có trọng lượng phân tử là 28.

    Mỗi Polymer được liệt kê cho đến nay về hình thể của nó chỉ duy nhất là một đơn thể, được gọi là Homo Polymer.

    Hỗn hợp khác của các đơn thể cũng có thể bị trùng hợp với nhau để tạo ra một Co – Polymer mà có chứa các đơn thể được trùng hợp ngẫu nhiên. Vì thế, Poly Methyl Methacrylate thì cứng, giòn và không hòa tan được trong xăng. Trong khi đó Poly Butyl Methacrylate thì mềm, dẻo và hòa tan được trong xăng. Một Co – Polymer mà Methyl Methacrylate trội hơn có thể còn thừa lại không hòa tan được trong xăng (hơi mềm) và chưa dẻo bằng Polymethyl Methacrylate.

    SỰ HÓA ĐẶC CỦA POLYMER:

    Ngoài ra sự trùng hợp của các phân tử tăng lên là do việc thệm vào của các đơn thể khác không chứa bất kì nguyên tử nào trong quá trình. Trong quá trình hóa đặc của polymer, việc gia tăng của mỗi phản ứng được đi cùng bởi việc tạo thành của các phân tử nhỏ (thường là nước) mà nó bị loại khỏi chuổi Polymer. Ví dụ:

    CH3 _ C _ OH + CH3 _ OH                CH3 _ C _O _ CH3 + H2O

              | |                                                         | |                      

                           O                                                         O         

                Acetic Acid + Methanol                     Methyl Acetate           Nước

               

                HO _  O  _  C  _  R  _  C  _  O  –  OH  +  HO _  R’ _  OH

                            Di Basic Acid                         Dy Hydric Alcohol

                                        HO  _  O  _  C  _  R  _  C  _  O  _  O  _  R’  _  OH  =  H2O

                                                                Polyester Resin 

    Ester là một nhóm được tạo từ sản phẩm phân tử nước và một sản phẩm có chứa một nhóm Carbonxyl ở nhóm cuối và một nhóm Hydroxyl ở nhóm khác. Trong các quá trình phản ứng, mỗi sản phẩm phản ứng khác của nhóm Ester và Polymer tổng hợp là một Polyester Resin. Poly Amides, Epoxy và Amino Resin cũng thường được tạo thành bằng phương pháp này.

    Sự hóa đặc thêm vào thì nhanh và có thể nhận được một sản lượng rất cao, nhưng sự hóa đặc của Polymer thường mất nhiều thời gian và sản phẩm phải liên tục di chuyển, trọng lượng phân tử cao cũng đáng kể.

    Một phân tử có khả năng phản ứng với một phân tử khác thì không thể tạo ra một Polymer. Nếu X và Y là các nhóm phản ứng thì sẽ ohản ứng, khi R – X + R’ – Y

    R – XY – R’ và phản ứng giữa X và Y là phản ứng không lâu. Một đơn thể hữu ích thì phải phản ứng tối thiểu với hai phân tử khác. Trong quá trình hóa đặc của sự trùng hợp, điều này có nghĩa là hai nhóm phản ứng trên phân tử. Ngàoi sự trùng hợp ra, nhóm đôi có khả năng tạo ra hai gốc tự do.

    Lượng phân tử có chứa một phân tửđươn thể có lẽ phối hợp trong phản ứng trùng hợp được biết như là nhóm chức. Nếu hiện diện của các đơn thể có hai nhóm chức, một Polymer nét khúc được tạo tứ (_ A _ có hai nhóm chức). Sau đó thì Polymer _ A _ A _ A _ A _ được tạo thành. Nếu lượng đơn chất nhỏ có ba nhóm chức thì nhánh có thể xuất hiện (_ B có ba nhóm chức).

                                                           A _ A _

                            _ A _ A _ A _ B

                                                           A _ A _

    Nếu lượng lớn ba nhóm chức đơn thể có mặt, thì một mạng ba nhánh được tạo thành.

                                        _ A _ B _ A _ B _ A _ B _ A _

                                                   |            |           |

                                                  A           A          A

                                                   |       A   |     A     |      A

                                                  B           B         B 

                                         A              A           A

               

    Polymer này được gọi là mạng mắc xích.

    Trong một polymer nét khúc, có một sự quay vòng về nhánh đơn. Polymer mềm dẻo, hơi nóng điều chỉnh sự di chuyển của các phân tử và các phân tử lỏng nhỏ có lẽ thâm nhập vào giữa các chuỗi. Cả hai sẽ hỗ trợ để loại ra tình trạng lộn xộn. Ví dụ như: Polymer sẽ tan chảy hay là hòa tan. Tương tự như vậy cũng đúng cho các Polymer có nhánh nhẹ với trọng lượng phân tử thấp và được biết như là Thermo Plastic Polymers.

    Trong một mắc xích Polymer, mỗi chuỗi có thể được nối với ít nhất là ba nhánh khác, đến nổi mà tảng rắn là một ohân tử. Để tách rời các chuổi, chúng ta phải phá vỡ vài nhánh cùng hệ. Vì thế, đầu tiên hơi nóng sẽ làm mềm như những đoạn giữa các mắc xích nhận được một tự do có giới hạn hay di chuyển. Giai đoạn tiếp theo không tan chảy, nó là sự phân ly.

    Trong khi các dung môi lỏng có thể thâm nhập vào trong các hố trong cấu trúc Cage – like khiến nó phồng lên, chúng không thể hòa tan Polymer trong khi đó lại hòa tan các phân tử phân đôi từ một phân tử khác. Điều này hoàn toàn rõ ràng và Resin được mô tả như là một Thermo Setting Polymer.

    Sự kết tinh có thể xảy ra ở các Polymer nơi mà có sự sắp xếp đồng dạng song song của các đoạn dài của các chuỗi Polymer. Việc kết tinh đó giới thiệu một lượng đặc trưng không mấy thiện chí trong Polymer theo như quan điểm trong sơn.

    1/ Thiếu kính ảnh, là do chỉ số phản ứng khác biệt giữa các vùng Polymer cứng.

    2/ Điểm tan chảy nhạy, việc hấp sơn đòi hỏi sơn được phép chảy đều và chảy không gây nên hiện tượng lún.

    3/ Không hòa tan được trong tất cả nhưng hầu như các dung môi có cực. Vì vậy mục đích của sơn đòi hỏi lượng lớn các Polymer không kết tinh và khuynh hướng kết tinh có thể được giảm bởi:

    a)     Sắp xếp các đơn vị lập lại của một Polymer không đều như Co – Polymerisation.

    b)    Giới thiệu số lượng lớn bên ngoài các nhóm.

    c)     Ngắt quãng các nhóm có cực mà các nhóm này cung cấp lực hút mạnh của các phân tử bên trong.

    d)    Giới thiệu điểm sôi cao của chất dẻo mà ảnh hưởng đến lực hút phân tử bên trong và ngắt quãng các chuỗi Polymer.

    **********************************************************************