Tính dẻo dính

  • Nét đặc trưng của chất lỏng là khả năng “ chảy, tuôn ra “ . Chất lỏng thay đổi theo dòng chảy và độ cản trở lệ thuộc vào dòng chay được biết đến như là  “độ dẻo dính “, nhưng đối với những ngưới không chuyên môn gọi nhớt thường có nghĩa là nó chảy chậm chạp hơn so với nước.

                Dầu và sơn thường chày ít thoải mái hơn nước. Tính dẻo dính (dính, độ nhầy) là một trong những tiêu chuẩn quan trọng trong việc áp dụng sơn, chi tiết kỹ thuật sơn thông thường chứa một điều đòi hỏi độ dẻo dính nào nên được xếp vào.

                Độ đặc cũng được sử dụng tùy vào bản chất dòng chảy của sơn và chất lỏng không đồng nhất phức tạp tương tự. Việc nghiên cứu sự luân chuyển của các chất phân biệt giữa độ đặc và độ dẻo dính. Nhưng độ đặc thường được sử dụng không phân biệt trong nghành công nghiệp sơn. Trên thực tế nó có thể cho thấy rằng “Độ đặc” là loại thuộc định tính nơi mà “Độ dẻo dính” là định lượng (có thể đo lường được) . Vật thể là một loại khác thường được sử dụng thay thế độ đặc và sơn có lẽ nó nặng hoặc là vạt thể nhẹ hoặc là vật thể không thật.

                Độ dẻo dính được đo lường trong những cách khác nhau , máy móc sử dụng được biết đến như là một máy đo độ nhớt. Trong tất cả các phương pháp đo lường ở một tiêu chuẩn, nhiệt độ qui định cần thiết thường 250c. Đơn vị của độ dẻo dính thường dùng là “POISE”, nó được đặt tên theo tên theo tên của nhà tiên phong phát minh ra phép đo đạt độ nhớt là Poiseuille. Độ dính của nước ở trong phòng nhiệt độ khoảng 0,01 Poise hoặc 1 Centipoise. Máy đo độ nhớt có liên quan đến dòng chảy của chất lỏng dưới trọng lực được đo trực tiếp không phải của độ dẻo dính, nhưng là của độ dẻo dính trên tỉ lệ tỳ trọng. Đây là loại dẻo dính có tính động học và đơn vị của nó là Stokes.

                Danh từ chuyên môn củ của Poise và Stokes được thay thế bằng những đơn vị SI :

                            1 poise = 10-1kg M-1 S-1

                            1 stokes = 10-4 M-2 S-1

                Nhưng cũng giống như (feet, inches và miles) / hour được thay đổi thành (meter và kilometers ) /hour . Cả hai loại đơn vị đo lường đó đó vẫn còn tùy thuộc vào những gì mà bạn học trước.

                Phương pháp ống bong bóng là một phương pháp đơn giản đã sử dụng đặc biệt hơn trong việc điều khiển độ dẻo dính của dầu và sơn dầu (vécni). Thiết bị đòi hỏi một ống ngắn, hẹp, khổ theo tiêu chuẩn được đóng lại bằng một nút bần và chứa chất lỏng có khả năng để lại một bong bóng nhỏ của không khí ở trên chất lỏng. Xoay ngược ống này lên, bong bóng di chuyển xuống cột chất lỏng, tỉ lệ chuyển động này có liên quan đến độ dẻo dính của chất lỏng và được so sánh với những bong bóng trong những ống tiêu chuẩn chứa chất lỏng được biết là có độ dẻo dính. Điều này không đúng, nhưng là một phương pháp đơn giản và được sử dụng đều đặn trong nhựa chế tạo (công nghiệp nhựa).

                Một phương pháp đơn giản khác là sử dụng tỉ lệ dòng chảy của sơn, bằng cách điều chỉnh dòng chảy dung tích sơn từ cái tách, trên cơ bản có một lỗ máy của lỗ khoan xác định một cách chính xác. Điều này được biết như là một phương pháp đo độ nhớt và độ dính trong một cái tách tiêu chuẩn (ví dụ: BS4, Ford4 hoặc Din Cup). Khi ta đong sơn thật đầy và trong tách và để sơn chảy hết trong tách ra tính thời gian sơn chảy ra hết khỏi tách là bao lâu, thời gian chuẩn tùy thuộc vào mổi sản phẩm sơn, mổi dụng cụ đo và mổi nhà sản xuất. Kết quả là dựa vào kinh nghiệm và không thể cho mức tiêu chuẩn chính xác.

    Trong phòng thí nghiệm một sự vặn (xoắn) máy đo độ nhớt thỉnh thoảng được dùng. Công cụ này gồm một hình trụ treo lơ lửng ở cuối dây kim loại và nhận chìm trong sơn chứa một hình trụ nhẹ có đường kính lớn hơn hình trụ đã được nhận chìm. Hình trụ bên trong được xoắn, chống lại chịu đựng của dây kim loại 3600 và được nhẹ lại. Tổng số việc đu đưa được chỉ định bằng sự vận động kim đồng hồ.

                Việc đo lường độ nhớt này được ảnh hưởng do sơn.

                Phương pháp nổi tiếng khác sử dụng máy đo độ nhớt của việc rơi tinh thể mà việc quan sát được thực hiện dựa vào thời gian quả bóng thép rơi qua khoảng cách xác định trong cột chất lỏng có chứa một ly hình trụ .

    Sự tiến bộ trong việc thiết kế máy móc đã dẫn đến :

    a)     Roto Thinner mà cuối cánh quạt (Roto) có hình dạng đĩa và được đặt vào đó ¼ L có thể quyết định độ nhớt nhanh chính xác.

    b)     Cone và Plate Viscometer (máy đo dộ nhớt hình nón và hình đĩa nơi mà số lượng sơn còn lại được đặt vào số lượng sơn nhỏ đó , đĩa hình nón và nhiệt độ để điều chỉnh đáy đĩa. Cách đo lường này có tỉ lệ xén cao so với trường hợp sử dụng cọ sơn.

    Sơn không nhỏ giọt do cấu trúc của hóa chất keo và dụng cụ đo độ nhớt , đo độ mạnh thông thường của hóa chất luân chuyển rất chậm với một bánh lái đơn nhỏ mà nó chỉ đem đếnchút ít thay đổi trong cấu trúc hóa chất keo.