Lời giới thiệu

  • Nitrocellulose lacquer hoàn toàn chiếm ưu thế trong lĩnh vực sơn xe tư động trong hai thập kỷ. Từ chiến tranh thế giới thứ II trở đi, những nhà sản xuất xe hơi đã chuyển qua sản phẩm sơn hấp “Synthetic” (Alkyd – Amino hay Acrylic – Amino).

                Lúc đầu, nhựa Urê được sử dụng nhưng chỉ trong một thời gian rất ngắn và lại nhanh chóng được thay thế bằng Melamine Resins. Sự thay đổi Synthetic đã mang lại những thuận lợi và bất lợi. Quá trình sơn được đẩy nhanh hơn chỉ cần một vài lớp vẫn đạt độ che phủ cần thiết và thân xe có thể đưa vào lắp ráp ngay sau khi hấp

                Công đoạn đáng bóng llà một bước cần phải có ở loại sơn N/C nhưng với loại sơn hấp thì không cần thiết. Tính chất sơn bóng ngay từ súng phun

     Đây không phải là một điều hoàn toàn thuận lợi, vì điều đó có nghĩa làviệc phòng ngừa chống lại bụi và tàn sơn là cần thiết. Vì với loại sơn N/C, một số lổi nhỏ có thể khắc phục khi đánh bóng, nhưng loại bỏ những lổi nhỏ sau khi sơn trong Sythetic thì là một vần đề. Dĩ nhiên thiệt hại đó sẽ gây ra trong suốt quá trìmh sử dụng xe hơi.

    Mặc dù dộ bền lâu dài của Synthetic vàNC là giống nhau nhưng Synthetic vẫn giữ dộ bóng tốt hơn, do đó ít cần đánh bóng và ít đánh bóng bằng sáp hơn so với N/C. Cả hai cũng ít nhạy với thiệt hại hóa chất gây bởi đá văng v.v. Synthetic không bao giờ có chiều sâu hay nước bóng hoàn toàn như N/C và không thành công trong việc dùng lâu vả lại nó cũng đắc tiền, chỉ được sử dụng theo yêu cầu xe hơi.

                Trong khi Alkyd – Amino Resin vẫn được sử dụng rộng rãi thì các sản phẩm mới được tiếp phát triển nhờ các nhà sản xuất. Trước tiên là sản phẩmThermolastic Acrylic mà các Binder có chứa Copolymer hay Acrylic Ester. Các sản phẩm này có khả năng cho màu tuyệt vời, độ bền tốt, giữ lại độ bóng và có thể tạo nên công thức cho độ bóng cao ngay từ súng phun. Cùng lúc đó thì các khuyết điểm nhỏ có thể được loại bỏ nhờ công đoạn đánh bóng.

                Khuyết điểm chính của chúng là tính nhạy với xăng Octane mạnh, sản phẩm sẽ mềm đi nếu đổ xăng đó vào chúng và có xu hướng rạn nức khi sơn quá dày. Trong nổ lực để vượt qua bất lợi này thì các Thermosetting Acrylic Binder được phát triển để cứu chữa vài rắc rối này nhưng nó lại không dễ đánh bóng. Những nổ lực này được tạo ra để điều khiển cấp độ mối liên kết nhằm giảm đi tính nhạy xăng nhưng cho phép đánh bóng.

                Để tăng việc sử dụng hệ thống sơn phủ bóng và dầu bóng thì Acrylic chỉ là các hệ thống Resin có khả năng sản xuất các sản phẩm trong suốt theo yêu cầu của công nghiệp.

                Sự phát triển hệ thống sơn phủ và dầu bóng được thay đổi từ loại sơn Metallic tự bóng sang đã thay đổi các hệ thống sử dụng sơn. Sản phẩm polychromatic được sử dụng vào năm 1930 và có chứa một lượng nhỏ hạt nhôm lấp lánh trong các lớp phủ. Việc phát triển các chất màu trong suốt đã trở nên phổ biến hơn, vì thế các sản phẩm màu sáng hơn và trong hơn được chế tạo.

                Với ý định để có được độ bóng tốt từ súng phun thì sản phẩm sơn được chế tạo để có độ bóng mướt của sơn sau khi sử dụng. Trong khi sơn chứa hạt nhôm vẫn có hạn chế độ bóng đó là một vướng mắc mhỏ trong việc sản xuất các sản phẩm hoàn thiện. Theo nhu cầu thị trường vào những năm 60 thì lớp sơn màu metallic tăng lên rất nhanh để có được nhiều màu sắc vì thế việc điều chỉnh độ bóng trong màu metallic đã trở nên rắc rối hơn. Lớp sơn hoàn thiện thường hay có đường sọc vằn hay đùn bạc là do sự dịch chuyển của hạt nhôm hay sự không đồng đều của hạt nhôm trên bề mặt cũng dẫn đến việc độ bóng giảm và kém độ mướt

                Vào năm 1959 việc giới thiệu các hệ thống sơn phủ và dầu bóng có chứa lớp phủ màu với chất màu cao hơn và một nhựa sơn thấp được tung ra. Chúng có chứa loại Lacquer khô nhanh, C.A.B (Cellulose Acetate Buterate) trong Resin phân tán mà có thể là Acrylic hay Polyester.

                Các hệ thống O.E này chứa một lượng nhỏ Resin liên kết M.F (Melamine Fomaldehyde) để cải thiện độ bám dính và độ chịu đựng đá văng nhờ mối liên kêt Resin phân tán trong suốt quá trình hấp.

                Trong vài trường hợp các sản phẩm sơn phủ có chứa dung môi lên đến 88%. Với tỉ lệ cao này sơn sẽ bay hơi nhanh chóng và dẫn đến sự co lại của lớp sơn. Điều này có ảnh hưởng làm suy giảm lớp sơn, hạt nhôm và định hướng chúng trên bề mặt, mang lại mức độ lấp lánh cao thậm chí cả bề ngoài và Flip cao (bề mặt sáng và góc nghiêng tối)

                Lớp sơn phủ được bảo vệ nhờ dầu bóng Acrylic (có chứa nhóm Hydroxyl liên kết ngang với Melamine Resin nhờ đốt nóng). Dầu bóng có những thuận lợi khác. Một phần là từ việc mang lại mức độ bóng tốt, bảo vệ lớp phủ màu khỏi sự tấn công của tia cực tím, thời tiết hay hóa chất. Còn những màu metallic qui định có chứa chất màu ở gần hay ở tại bề mặt sơn.

                Xu hướng trong việc cải thiện màu được chọn đã khiến các nhàsản xuất hướng vào các sản phẩm sơn camay (Pearlescent), hạt camay được sủ dụng để thay thế hạt nhôm, vì thế cho phép màu sáng hơn và trong hơn được sản xuất. Xu hướng này cũng dẫn đến lớp phủ và dầu bóng được sử dụng trong màu theo qui định mà tại đó có thuận lợi về độ bóng, độ bền và độ đặc.

                Có lẽ một trong những thay đổi lớn nhất đó là thay thế trong việc sơn xe hơi ở giai đoạn phủ bên dưới. Khi xe có khung gầm, thân xe thường được thiết kế và được sơn một cách riêng biệt. Khung xe được sơn trước tiên bằng cách nhúng hay phun vàđược sơn bằng màu đen. Máy móc và sự chuyển giao được lắp vào gầm xe trước khi khung xe được lắp vào và được sơn màu.

                Việc sử dụng các phương pháp sản xuất tiết diện hộp, tất cả các hệ thống sơn được thích nghi với việc sơn lót các sườn xe. Chúng thường gây ra Dipping trong toàn bộ sườn xe ở lớp sơn ban đầu Alkyld và xoay quanh sườn xe như khi nó được tháo rời và cho phép rút nước, giảm lổi sơn chảy và cả hiện tượng lún sơn. Các hệ thống khác nhúng thấp hơn một nữa sườn xe ở lớp sơn ban đầu Alkyd.

                Việc phun lớp sơn lót không thể vào trong tiết diện hộp nhưng trong quá trình nhúng để lại lổi sơn chảy, hiện tượng lún sơn bị loại bỏ và thường không bảo vệ tiết diện hộp và ngăn chặn việc khô nhanh.

                Kết quả là tất cả sơn đều dồn đến đỉnh tiết diện và tích lũy ở đáy tiết diện hộp, dẫn đến là sự Oxy hóa trên bề mặt sơn sớm hơn. Cũng có vài sự rủi ro ở chốt an toàn bể bơi của sơn là dễ cháy nên cần được lưu ý.

    Bước quyết định xảy ra khi sơn được phát triển có thể mang dòng điện được nạp vào thân xe theo một cách thức tương tự như lớp mạ Crôm hay đồng.

    Dĩ nhiên nó không thể nạp diện dung môi do sơn có những mối nguy hỏa hoạn, ví thế mà loại sơn nước “nhủ tương” được sử dụng. Loại đầu tiên của các quá trình này đã bắt đầu vào năm 1970 bằng cách sử dụng Anodic Electro – Deposition (Sự kết tủa bằng điện cực dương). Loại Epoxy Ester Resin cùng với trị số Axit cao được trung hòa với một gốc dễ bay hơi như Amonia hay Amine tạo thành muốiPolymeric hòa tan được trong nước.

    Phần trùng hợp của muối bị tấn công một cách phủ định và có thể bị hútphóng đến cực dương trong một tế bào điện tử. Resin và Pigment nạp vào vật thể kim loại vì sau đó lớp sơn không thoáng. Khi độ dày của lớp sơn tăng lên thì độ chịu đụng điện xảy ra, vì thế phải để qui trình phủ sơn ở những nơi khó tiếp xúc. Thậm chí sự lắng đọng làm ngưng các lớp phủ sơn và điều khiển tự động độ dày của lớp sơn. Quátrình này thường tự động hoàn toàn và phủ sơn lên tất cả các phần sườn xe. Tuy nhiên, bất tiện nó là một lớp phủ sơn đồng dạng.

    Vào đầu năm 80, các nhà sản xuất xe hơi đã bỏ đi phần nạp cực dương trong phần nạp cực âm mà tiếp theo là quá trình không thay đổinhưng đã kết hợp ít pha trộn và có thể gia tăng độ chịu đựng ăn mòn suốt lớp sơn trong việc sản xuất xe hơi và mang lại những bảo đảm cho độ ăn mòn chịu đựng đó.