G.R.P (Sợi thủy tinh được tăng cường Polyester)

  • Vật liệu này được sử dụng nhiều trong công nghiệp tự động là vì sữa chữa

    bằng dụng cụ rẽ tiền, có độ  nhạy và mạnh. Quá trình thường liên quan đến việc ứng dụng một chất keo phủ lên bề mặt của một khuôn, Theo sau đó bởi thảm sợi thủy tinh và (khơi động) Polyester Resin. Polyester phục hồi và một cấu trúc cứng được hình thành.

    Từ một khía cạnh của sơn, vài vấn đề có thể xuất hiện như lớp phủ keo một cách đặc biệt nếu Hand Laid up có chứa các lỗ đinh kết giao với bọt không khí. Polyester trong quá trình phục hồi co rút lại và do độ dày đường chỉ tăng lên làm nóng hơn nhờ phản ứng hóa học. Sự co rút này không đồng bộ và có thể duy trì trong vài tháng hay vài năm. Stress do sự co rút có thể gây nên các vết nứt, đặ biệt từ vùng bị tress hay những chỗ trống trong cấu trúc.

    Phản ứng Polyester có thể bị hạn chế nhờ không khí. Điều này giải thích cho bề mặt nhớp nháp ở đằng sau của đường chỉ và có thể là kết quả trong vật liệu chưa phục hồi, trong những chỗ trống mà sau này có thể bị phá vỡ và phồng giộp.

    Để ngăn chặn các đường chỉ dính bám, các chất trung gian phóng thích được sử dụng trong khuôn. Có thể là P.V.R, Bee Wax hay Flouro Carbon. Các chất này phải được di chuyển khỏi lớp phủ keo trước khi sơn.

    Thép là một loại được sử dụng để mô tả hỗn hợp hóa chất chính yếu vượt trội nhờ sắt và vì công nghiệp sơn phụ thuộc vào công nghiệp thép, đặc biệt trong việc sản xuất xe hơi. Đó là điều lý thú để lại dấu vết lịch sử của nó.

    Loại sắt Victoria hay sắt Pig có được từ lò luyện kim thì giòn, chủ yếu là do nó có lượng Carbon cao. Vào năm 1855, Herry Bessamer đã thí nghiệm tại xưởng St. Pancras của ông ta bằng cách thổi không khí vào khắp khuôn loại sắt Pig ở nhiệt độ 1200 oc. Quá trình này Oxy hóa Mangan, Silicon và Carbon ra khỏi hỗn hợp như đốt cháy khí đốt hay vảy sắt.

    Để lượng Carbon quá thấp thì Oxy còn lại trong khuôn phải sủi bọt và trong hỗn hợp phải có lưu huỳnh. Điều này khiến các tính chất bỏ lại một phần khi luyện kim. Các vấn đề này được giải quyết vào năm 1857 khi Robert Muschet thêm một hợp kim gồm Mangan, sắt và Carbon để làm tan chảy ra sau khi thổi một luồng hơi nước. Vì thế nó càng gia tăng lượng Carbon và di chuyển lưu huỳnh như Mangan và các viên nhỏ lưu huỳnh trong thép chứ không phải sắt và lưu huỳnh.

    Trong mười năm thép Anh íy hơn ¼ giá của nó vào năm 1856 .Vào năm 1872 Andrew Carnegie tinh chế quá trình xa hơn nữa.