Wood Primers

  • Tính chất của gỗ bao gồm số lượng lớn các tế bào liên kết với những thành Cellulose cứng. Độ ẩm của gỗ khác với độ ẩm của không khí. Những biến đổi trong độ ẩm được đi cùng nhờ sự phồng lên hay sự co lại của các thành tế bào, đây là kết quả trong sự thay đổi kích thước trong gỗ một cách trọn vẹn.

    Các lớp sơn ban đầu cho gỗ, đặc biệt là với sản phẩm bên ngoài. Vì thế có những thành phần như sau:

    a)     Độ dính tốt cho bề mặt.

    b)    Tính co giãn bền vững cốt để mở rộng và tương tác với các thay đổi kích thước.

    c)     Không thấm được độ ẩm.

    Loại sơn ban đầu củ thì dựa vào chì trắng và dầu hạt gai, hiện nay hầu như đã lỗi thời và được thay thế bằng Oleo ResinPolyurethane một thành phần, Alkyd và Waterbased Acrylic.

    Sự cấu thành của sắc tố thường là Titanium Oxide và vài Iron Oxide để cho màu hồng truyền thống. Calcium Plumbate và nhôm được thêm vào để cải thiện độ chịu đựng độ ẩm và độ đậm của lớp sơn.

    Các lớp sơn ban đầu kháng cự Alkaki (hiện có trong trát vữa xi măng và những tấm Asbestos) và đóng kín các bề mặt thoáng. Các Polymerised Binder được phát hiện ra là có hiệu quả nhất và bao gồm cao su khử độc bằng Clo, dầu tung / Phenolic, nhủ tương Vinyl và Styrene – Butadiene Copolymer Resin. Sự cấu thành sắc tố là thấp do thành phần Sealer được đóng góp phong phú bởi Binder.

    Các lớp sơn ban đầu cho sắt và thép là một trong những loại sơn được con người sử dụng trong khắp thời đại. Xu hướng tự nhiên của các cấu trúc và vật phẩm sản xuất của mọi loại bị làm mòn dần bởi những ảnh hưởng ăn mòn và phá huỷ dần của khí quyển.

    Theo ước tính giá trị ăn mòn hàng năm trong UK theo thứ bậc là 1500 triệu bảng vào năm 1976.

    Một chút mô tả quá trình được đưa ra sớm trong chương này:

    Ba điều kiện cần thiết cho sự ăn mòn xảy ra ở nhiệt độ bình thường, đó là:

    1/ Cung cấp độ ẩm.

    2/ Cung cấp Oxy hay không khí.

    3/ Sự khác biệt tiềm tàng giữa các vùng gần kề trong bề mặt kim loại.

    Sự khác biệt tiềm tàng có thể xảy ra từ:

    a)     Những Cacbua sắt khác biệt trong thép trong suốt.

    b)    Than chì hay các phân tử Carbon trong cấu trúc thép.

    c)     Vảy hay rỉ trên bề mặt thép.

    Millscale bể vở trên bề mặt có thể là một ví dụ của sự ăn mòn xảy ra như thế nào? Vảy sẽ tạo ra một tế bào ăn mòn nhỏ với thép khi có sự có mặt của klhông khívà hơi ẩm. Thép trở thành cực dương và vảy trở thành cực âm. Sắt rã ra ở cực dương và di trú đến cực âm tạo thành rỉ.

    Sự ăn mòn của thép được gia tăng nếu nước chứa một Axit hay một chất bị điện giải (như muối) hoặc nếu thép ở trong một điều kiện Stress.

    Sự tiếp xúc giữa thép và các kim loại khác có thể dẫn đến sự ăn mòn “Galvanic” hay “Bi – Metallic” nhưng có vài kim loại thực tế sẽ bảo vệ thép. Nếu thép và đồng đỏ tương tác với sự có mặt của không khí và hơi ẩm thì thép trở thành cực dương và đồng đỏ trở thành cực âm. Dưới những điều kiện này thép bị ăn mòn một cách nhanh chóng.

    Khi tươg tác với kẽm thì thép trở thành cực âm và kẽm trở thành cực dương. Ở đây, kẽm ăn mòn và thép được bảo vệ. Kẽm cung cấp sự bảo vệ “sacrificial”hay “Cathodic” cho thép và được sử dụng trong vài hình thức cho mục đích này.

    Cách để biết kim loại sẽ bị ăn mòn Sacrificially từ tiêu chuẩn nguyên tố Redox.

                                        Sắt     = -0.44 E o/v

                                        Đồng = +0.54 E o/v

    Đối với sự phối hợp này, sắt có tính âm điện sẽ Oxy hóa đầu tiên.

    Với sắt và kẽm,           Sắt     = -.44 E o/v

                                        Kẽm = -.76 E o/v

    Kẽm có tính âm điện sẽ tạo thành cực âm của mạch điện và ăn mòn (tan rã sắt trong dung dịch) đầu tiên.

    Thông tin này có thể được tính toán từ bảng của các chuỗi điện hóa học nhưng một cách chính xác đạt được từ tiêu chuẩn Redox tại 298.15K.