Hoạt động phun sơn

  • Thiết bị cung cấp sức hút sẽ được nối với vòi không khí hay máy điều chỉnh không khí và được điều chỉnh đến 50 psi tại súng phun. Máy điều chỉnh bộ phận rải được mở rộng và cánh quạt của máy điều chỉnh sự phân phối chất lỏng trở nên mở rộng ra.

    Chính vòi phun nằm ngang và phun lên mẫu thí nghiệm giữ cho cò súng mở rộng cho đến khi sơn bắt đầu chảy.

    Sẽ có một sự phân phối sơn phủ đầy qua bề ngang của mẫu. Nếu không có thì sẽ có vấn đề với cột không khí hay đầu chất lỏng mà phải được chính xác và nơi bắn gặp rắc rối.

    Áp suất phun chính xác có thể được kiểm tra nhờ sự điều chỉnh áp suất lên hay xuống và việc kiểm tra mẫu sơn phun và việc đo độ rộng mẫu sơn phun. Áp suất phun thuận lợi nhất đạt được với mẫu cánh quạt lớn nhất.

    Đối với hệ thống cung cấp áp suất, sự phun không khí sẽ bị khóa và tỉ lệ phân phối chất lỏng được kiểm tra nhờ việc đo đạt lượng đã phân phối trong một phút hay việc đo đạt khoảng cách dòng chảy sơn đạt được.

    Đối với tách điều khiển khoảng 6 psi trong bình và khoảng 5 psi trong 2 gallon và trong bình chứa lớn. Sự phân phối của chất lỏng 14 – 16 ounce, 400 – 500 cc trong mỗi phút hay bắn ra 3 – 4 feet trước khi nó nhỏ giọt .

    Mẫu sơn phun sau đó được kiểm tra bằng việc phun không khí và phun sơn lên mẫu thí nghiệm nằm ngang.

     

    VẼ HÌNH TRANG 11/15.

    Hoạt động phun sơn sẽ được thực hiện để mẫu được sơn vuông góc với bề mặt mọi lúc, giữ khoảng cách súng với bề mặt được phun xấp xỉ 8 inches. Một phương pháp đơn giản để xác định khoảng cách là gang tay từ ngón tay cái đến ngón tay út.

    Súng được bóp cò bằng một động tác tự do của cánh tay, giữ súng ở những góc phải so với bề mặt. Việc bóp cò chỉ bắt đầu trước khi gờ bề mặt được phun. Cò súng sẽ bị kéo hoàn toàn về đằng sau trong một động tác tiếp theo cho đến gờ khác của vật thể được sơn. Sau đó cò súng được thả ra , khóa dòng chảy của chất lỏng , nhưng động tác tiếp theo được tiếp tục trong vài inches cho đến khi nó ngược lại.

     

    VẼ HÌNH TRANG 11/16.

    Mỗi lần sơn như vậy thì 50% sơn lấp lên phía trước ít hơn 50% có thể là kết quả trong những đường sọc trên bề mặt đã hoàn thành. Việc di chuyển súng ở tốc độ không thay đổi cùng với sự phân phối không đổi và 50% sơn lấp sẽ là kết quả trong lớp bao phủ đồng dạng.

    Hình cung súng có thể là kết quả trong việc ứng dụng gồ ghề và phun đầy quá mức ở mỗi gờ sau mỗi lần sơn. Khi súng phun đạt vòng cung ở 45oc so với bề mặt thì xấp xỉ 65% vật liệu phun bị mất.

    Ba loại phủ cơ bản thường được sử dụng trong việc tái hoàn thiện:

    i)               Tack Coat: Đây là lớp phủ nhẹ được ứng dụng cho bề mặt và sau đó thì được phép chờ để dung môi bay hơi cho đến khi sơn chưa khô (thường vài phút). Lớp phủ ướt được phun trên lớp Tack Coat, lớp Tack Coat này giữ lớp phủ cuối cùng và ngăn chặn độ bóng mướt quá mức của sơn.

    ii)             Lớp phủ hoàn toàn ướt: là lớp phủ có nhiều nước bóng được ứng dụng trong sơn dày, hầu như đủ nặng để sơn chảy. Nó đòi hỏi kỹ năng và thực hành phun sơn như là lớp phủ.  Thường việc ứng dụng một lớp phủ gấp đôi được ưa chuộng sử dụng. Vì vậy để mang lại độ bóng mướt tối đa với khoảng thời gian giữa các lớp phủ có khả năng chờ dung môi bay hơi để giảm đi khả năng tạo nước mắt sơn và lún sơn.

    iii)           Lớp phủ sương mù hay lớp phủ bụi đôi khi sử dụng để chỉnh màu Metallic và san bằng màu Metallic và Basecoat. Ứng dụng tương tự như ứng dụng lớp Tack Coat nhưng thành phần và thời gian của lớp phủ có thể khác nhau. Lớp đơn màu Metallic này thường liên quan đến việc ứng dụng lớp phủ bụi để làm ướt các lớp phủ màu, hay dùng với xăng phụ.

    Việc phun nối tiếp sẽ liên quan đến việc phun những vùng khác nhau trước tiên là các góc và các gờ. Điều này đạt được nhờ việc giảm sự phân phối sơn hay áp suất. Phun sơn nơi những bề mặt cong bằng súng phun vuông góc với bề mặt luôn luôn không thể là một cách vật chất nhưng sẽ đạt nhiều sản phẩm đồng dạng và đối với bề mặt rất nhỏ, thì súng phun nhỏ hơn sẽ có mẫu sơn phun nhỏ xa tầm tay.

    Trước khi ứng dụng sơn, điều quan trọng là kiểm tra mẫu sơn phun. Mẫu này thường là hình chữ nhật với phần cuối là hình tròn. Sơn phủ được phân phối khắp mẫu và hình dạng của nó không bị bóp méo. Bất kỳ sự thay đổi trong mẫu đến cái đốm hình tròn phải cùng đồng hành do sự thay đổi trong sự phân phối sơn để ngăn chặn việc chất quá nặng.

    Việc thiết kế súng có liên quan đến áp suất phun thuận lợi nhất. Áp suất phun chính xác sẽ tùy thuộc vào sự phối hợp của các yếu tố khác nhau ; loại sơn như : NC; Synthetic; M.S xăng nhanh , vừa , chậm; độ nhớt; cột không khí; tỉ lệ bốc mùi của sơn; sự chính xác của máy đo áp suất; quãng rơi của áp suất.

    Áp suất phun thích hợp là cần thiết thấp nhất để đạt mức độ phun chính xác, tỉ lệ bốc mùi và độ rộng cánh quạt.

    Kết quả áp suất quá cao trong sơn quá mức mất đi trong khi phun đầy và trong cách dùng sơn cao. Độ bóng kém từ dung môi cao mất đi trước khi sơn tới bề mặt . Kết quả áp suất quá thấp trong những đặc điểm kém khô do sự duy trì dung môi cao và tạo ra bong bóng và hiện tượng tụ sơn.

    Trước khi sơn, mẫu sơn phun sẽ được kiểm tra để xác định mức độ phun chính xác,kích cỡ, hình dạng của mẫu sơn phun.

     

    VẼ HÌNH TRANG 11/17.

    Cầm súng bằng ngón tay cái và các ngón tay khác (7 – 9 inches) mở cò súng trong khoảng 2 – 3 giây tại 30 – 40 psi.

    Nhờ việc kiểm tra mẫu sơn phun làm tăng áp suất không khí và lập lại cho đến khi không tăng trong kích cỡ cánh quạt xuất hiện. Độ mịn ngang nhau thậm chí mẫu sơn phun đạt được.

    Trục trặc trong việc phun sơn có thể xảy ra nếu:

    1)    Vật liệu không đủ trong tách súng hay bị giới hạn trong những hành lang chất lỏng.

    2)    Chỗ đầu chất lỏng bị hư hại hay bị hỏng.

    3)    Độ nhớt quá cao của vật liệu hay lỗ không khí bị tắt nghẽn.

    4)    Dry Packing hay Fluid Needle Packing.

    ·       Mẫu sơn phun không hoàn toàn có thẻ xảy ra từ :

    1)    Không khí bị trở ngại một cách cục bộ.

    2)    Chất bẩn trên chỗ cột không khí hay chỗ đầu chất lỏng.

    3)    Sự tắt nghẽn đầu chất lỏng ở đầu và đáy mẫu sơn.

    4)    Các lỗ bị trở ngại.

    5)    Chất bẩn trên mặt đầu chất lỏng trong mẫu sơn cong.

    6)    Áp suất quá cao và độ nhớt quá thấp sẽ là kết quả trong cánh quạt.

     

    VẼ HÌNH TRANG 11/18.

    Súng hút dựa vào áp suất không khí bình thường phân phối cho sơn. Khi cò súng được kéo thì không khí bị nén thoát khỏi cột không khí của súng và chân không được tạo ra ở đầu cột. Áp suất khí quyển cao hơn chân không, vật liệu dồn trong ống chất lỏng.

     

    VẼ HÌNH TRANG 11/18.

     

    Hệ thống cung cấp áp suất thường có:

    A)   Máy điều chỉnh để điều chỉnh áp suất không khí trong bình một cách độc lập, việc phun áp suất không khí cho phép kiểm soát tỉ lệ phân phối chất lỏng. Chúng cũng được lắp ăn khớp với :

    B)   Máy đo để xác định áp suất chất lỏng.

    C)   Một cái van hở áp suất an toàn. Hệ thống cung cấp áp suất thường được sử dụng để tiếp tục sản xuất hay các vùng lớn được sơn.