Các lỗi khác

  • VIỆC TẠO HỐ TRONG PHUN ĐẦY:

    Sự làm lõm tròn nhỏ (thường trải đầy khu vực bị ảnh hưởng). Các hố lớn có thể có những gợn lặn.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/19.

    Những nguyên nhân có thể xảy ra:

    Bụi phun không tương xứng ở trên hay rơi xuống lớp sơn ướt từ hoạt động trước dưới các phòng phun cân bằng có thể khiến việc phun đầy treo quanh trong một thời gian dài, việc phun đầy bị ngắt từ những thợ điều chỉnh hay thiết bị có thể xảy ra.

     

    VIỆC CẮT XÉN:

    Sự xuất hiện vết bẩn không đồng dạng có đốm của sơn màu Metallic hay những khu vực không đều tối nhỏ trong màu Solid.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/19.

    Những nguyên nhân có thể xảy ra:

    Thường được liên kết với những lớp sơn ướt trong các màu Straight và dãy màu Metallic đơn, độ nhớt cao, sự bay hơi thấp của xăng, áp suất phun thấp, độ rộng cánh quạt hẹp, súng quá kín, thất bại trong việcphun lấp = 50% Gun Strokes, mẫu phun không hoàn toàn hay thất bại trong việc cầm súng ở góc phải.

    Trong Basecoat, việc cắt xén có thể được gây ra bởi lớp ở bên trên nhưng cũng có thể được sản xuất do sơn được ứng dụng để khô và không có thể liền lại (phối hợp để tạo lớp sơn đồng dạng), phun khô ở những khu vực nhỏ thì có hiện tượng giống như những đốm trên da con báo.

     

    VIỆC TẠO HẠT:

    Sự xuất hiện các phân tử đồng dạng trong sơn có kích cỡ và mẫu đều nhau.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/20.

    Khi hạt được tạo trong sơn đó là hoạt động của các phân tử phối hợp với nhau, Pigment hay Resin sẽ mang lại một mẫu đều nhau. Nó có thể xảy ra với các lớp phủ mỏng của sơn nơi mà Pigment thô có thể được nhìn thấy là nhô ra khỏi lớp sơn và xảy ra giống như đợt sơn củ. Cách lọc sơn sẽ lấy đi sơn đóng hạt.

     

    SỰ LỢN CỢN MÀU / SỰ LÊN BÔNG:

    Xu hướng của các phân tử Pigment trong lớp sơn ướt tách từ một lớp sơn ướt

    khác và tập trung trong những khu vực đặc biệt.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/21.

    Những khuyết điểm lợn cợn màu là kết quả của việc ứng dụng lớp sơn ướt khó bay hơi. Để tránh sử dụng lớp sơn rất ướttrong sản phẩm màu metallic, đặc biệt cẩn thận chú ý đến những đầu chân vịt .v.v.Để tránh sự gia tăng của những giọt nước mắt mà nó có khả năng thể hiện trên những đường lợn cợn.

    Những khuyết điểm làm ngập lụt thường xảy ra trong việc ứng dụng sơn cọ và thường là kết quả do sơn bằng cọ. Sau khi sự thành lập ban đầu xuất hiện. Trong sản phẩm phun, áp suất không khí vượt trợ có thể gây ra sự khác nhau vể màu sắc.

     

     

    NHỮNG VẾT CÀO XƯỚC DO CHÀ NHÁM:

    Sự xuất hiện lỗi thể hiện từ lớp sơn ban đầu hay kim loại.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/21.

    Nguyên nhân thực sự bao gồm lớp phủ trên cùng được thiết kế thấp từ các lớp phủ làm mỏng hay không đủ, sử dụng giấy chà nhám thô, khô không tương xứng với lớp phủ màu đầu tiên hay lớp sơn ban đầu tạo độ chính xác cho lớp sơn sau kém nhưng dưới lớp sơn ban đầu hai thành phần cũng sẽ làm phồng ra dung môi, thể hiện những vết cào xước và sự lõm vào của sơn.

     

    KHẢ NĂNG CHE KHUẤT KÉM:

    Sơn không có khả năng che dấu màu hay mẫu của một bề mặt.

    Hầu hết sơn được thiết kế để xóa đi bề mặt bên dưới bằng một số lớp phủ đặc biệt, vài lớp phủ màu vàng, đỏ và xanh lá cây có khả năng che khuất kém do sử dụng Pigment tự nhiên. Nguyên nhân thực sự về khả năng che khuất của sơn không có trong loại trên mà là do sử dụng số lớp phủ không có khả năng làm mỏng sơn, sử dụng sơn không cứng hoàn toàn (vẫn còn chứa tính chất ở đáy lon) hay là do ứng dụng sơn trên Pigment rỉ nhựa hay thuốc nhuộm trong màu bên dưới.

     

    VẼ HÌNH TRANG 12/22.

               

                LỖI ỨNG DỤNG THÔNG THƯỜNG TRONG PHÒNG SƠN

     

    Lỗi :

    Độ bóng thấp từ súng phun.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Sản phẩm :

    Belco

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Permobel & P383.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    2K

    Nguyên nhân :

    Các lớp phủ khan hiếm do việc làm mỏng hay do dùng xăng rẻ tiềnhay không đủ lớp phủ hay độ bóng mướt kém hay hiện tượng mốc. Áp suất không khí cao tạo ra sự phun khô.

    Do làm mỏng hay ứng dụng độ bóng mướt quá nhẹ hay kém do hiện tượng phun đầy không được hấp thụ? Do sự lên bông của các Pigment (đỏ hay xanh). Do việc bỏ sót dung dịch khô.

    Ứng dụng quá nhẹ. Độ bóng mướt kém. Hiện tượng phun đầy không được hấp thụ.

    Sửa chữa :

    Mỏng chính xác là do dung tích, sử dụng xăng có chất lượng. Phun các lớp phủ phụ thêm. Dùng xăng chậm hay thêm chất làm chậm lại. Giảm áp suất (xuống 60psi hay ít hơn).

    Làm mỏng để có độ nhớt chính xác. Ứng dụng các lớp phủ trọn vẹn. Sử dụng xăng chậm hay thay đổi chuỗi nối tiếp của việc phun. Đảm bảo sự thông gió tốt trong suốt giai đoạn khô.

     

    Ứng dụng các lớp phủ trọn vẹn .Dùng xăng chậm hay thay đổi chuỗi nối tiếp của việc phun

     

    MỨC ĐỘ CỦA ĐỘ BÓNG:

    Tất cả các lớp phủ màu đều có các Pigment của chúng bị phân tán đến 10 micron hay mịn hơn và được làm thành công thức tại một Pigment. Tỉ lệ Binder mà đem lại độ bóng cao nhất phù hợp với khả năng che khuất đầy đủ.

                Độ bóng và khả năng che khuất trọn vẹn đạt được tại lớp sơn khô có độ dày 50 micron (0,002”) trong ba lớp phủ đơn hay một lớp phủ đơn hay một lớp phủ đôi cho đa số các màu, hai lớp phủ đơn trong hệ MS.

    Vì thế thiếu độ bóng là do điều kiện ứng dụng và kỉ thuật.

    Các nguyên nhân trên có thể xảy ra dưới những điều kiện thường 65 – 70o F (18 – 21o c) và sẽ trở nên được tuyên bố nhiều ở nhiệt độ cao 75 – 80o F (24 – 27o).

     

    Lỗi :

    Bóng mờ và việc lột vỏ trong một lớp màu Metallic.

     

     

     

     

    Chấp vá trong các lớp phủ Basecoat.

     

     

     

     

     

     

     

     

    Dung môi bắn rahay dung môi sôi.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Phản ứng trên lớp phủ phồng hay gợn sóng.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Dung môi làm rạn trên TPA,OE.

     

     

     

     

     

    Hiện tượng phồng lên xung quanh vùng sửa chữa.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Đường viền “Ringing” quanh vùng sửa chữa hay để lộ ra khi khô.

     

     

     

     

     

     

     

    Vết xướt cuối cùng mở rộng xung quanh vùng sửa chữa và nhấn chìm trở lại các dấu cào xướt.

     

     

     

     

    Mạng nhện

     

     

     

     

    Sản phẩm :

    Belco

     

     

    Permobel & 2K.

     

     

     

    Belco

     

     

     

    2K

     

     

     

     

     

    Belco

     

     

     

     

     

    Permobel

     

    2K

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Belco & 2K.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Permobel & P383.

     

    Permobel

     

     

     

    Belco & 2K.

     

     

     

     

    Permobel

     

    Belco & 2K.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Permobel

     

    Belco & 2K.

     

     

     

     

     

     

     

    Permobel

     

     

    Belco

     

     

     

     

     

    2K & Permobel

     

     

     

    Etch Primer

     

     

     

     

    Belco, 2K, Permobel, P383.

    Nguyên nhân :

    Đuôi phun hẹp hay ứng dụng súng bị cản một phần.

    Ứng dụng quá ướt.

     

     

     

    Vùng phun khô từ xăng nhanh như 222 hay phòng phun ấm.

    Ứng dụng quá ướt hay các lớp phủ không đủ.

     

     

     

    Các lớp phủ khó khô khoảng thời gian chờ cho dung môi bay hơi giữa các lớp phủ không đủ.

    Rất hiếm khi xảy ra.

    Các lớp phủ khó khô hay các vùng sơn lấp trên các đỉnh biên. Khoảng thời gian chờ cho dung môi bay hơi giữa các lớp phủ không đủ. Có thể xảy ra khô do không khí hay hấp ở nhiệt độ 80 – 90oc với thời gian đặc biệt.

    Ứng dụng trên khắp sơn Synthetic củ hay dưới sơn được sửa chữa hai thành phần hay nơi mà sơn được sửa chữa hai thành phần đã được chà nhám chạy suốt đến lớp phủ bên dưới Cellulose hay sửa chữa ở lò hấp cao OE.

     

     

     

     

     

     

    Sơn phủ lại trước khicác lớp phủ đầu tiên khô hoàn toàn như quà sớm hay dưới điều kiện khô kém.

    Sự chuyển động của TPA.

     

     

     

    Hầu như không xảy ra.

    Độ sánh có khả năng che tốt của Polyester hay lớp sơn ban đầu hai thành phần được sơn lấp cho một dung dịch sơn như TPA,OE hay việc tái hoàn thiện Cellulose ban đầu.

     

     

     

     

    Hầu như không xảy ra.

    Hiện tượng Featheredging kém. Màu ứng dụng quá ướt với thời gian chờ cho dung môi bay hơi giữa các lớp phủ không đủ.

    Nếu biến cố xảy ra không chắc thì xử lý như trên.

    Khả năng che phủ không đủ , che phủ sang các gờ. Nơi mà mạt giũa thô được sử dụng.

     

    Thường có khả năng xây dựng để bao bọc những thiếu hụt này.

    Áp suất không khí quá cao. Vật liệu quá lạnh. Độ nhớt quá cao.

     

    Không chắc xảy ra.

    Sửa chữa :

    Dùng độ rộng đuôi hoàn toàn súng sạch.

    Dùng xăng nhanh để lâu giữa các lớp phủ. Phun nhẹ các lớp phủ sau cùng.

    Dùng xăng chính xác –1225 hay –804 và phòng phun làm nguội xuống.

    Cầm súng xa hơn phía sau, vài màu sắc viz. Đỏ/nâu sẫm cần các lớp phủ phụ hay lớp phủ nền đầu tiên.

    Để lâu giữa các lớp phủ.

     

     

     

     

     

     

    Các lớp phủ nhẹ hơn , ít sơn lấp, 10 giây cho thời gian chờ cho dung môi bay hơi giữa các lớp phủ , xăng chậm hơn.

     

     

     

     

     

     

    Chà nhám và sử dụng sơn ban đầu hai thành phần hay bề mặt SR. Cho phép sơn hai thành phần hoàn toàn cứng. Chà nhám và đóng kín bằng các lớp phủ nhẹ RPF. Ứng dụng màu trong lớp phủ nhẹ và gia tăng. các miếng vá được đóng kín bằng RPF. Hoàn toàn các tấm panô sử dụng sơn ban đầu hai thành phần hay bề mặt SR.

    Chà nhám ướt một cách cẩn thận cho phép khô từ 12 – 24 tiếng trước khi sơn phủ lại, sử dụng xăng nhanh.

    Đóng kín bằng RPF hiện tượng rạn khốc liệt phải được lột bỏ và được sơn lại.

     

     

    Thành phần che phủ tốt PE và lớp sơn ban đầu hai thành phần sẽ được giữ lại để làm trụi kim loại hay lò hấp cao OE. Làm bằng phẳng xuống, đóng kín bằng các lớp phủ nhẹ RPE. Sử dụng vật cách điện 85 như là một phương kế lâu dài xảy ra.

     

     

    Chà nhám ướt và sơn lại màu.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Đảm bảo ba hay bốn lớp phủ RPF ngoài sự sửa chữa được bao bọc.

     

     

     

     

     

     

    Sử dụng 40psi max. Hãy giữ vững để đạt được nhiệt độ phòng. Thêm 10% - 396 xăng.

    Một sự mô tả tốt về các vấn đề cùng với các bản màu được cung cấp trong sách tóm tắt sản phẩm tái hoàn thiện tiện lợi cho tất cả nhân viên. Do thông tin bao gồm trong sách này tốt? Tôi sẽ không sao chép nó trong chương này, nhưng tham khảo thêm sinh viên để sử dụng nó.

     

    HÃY XEM CÁC KHUYNH HƯỚNG HIỆN NAY:

    Xe hơi trung bình có một tai nạn mỗi 50000 dặm, giá trị sửa chữa khoảng 700 bảng. 65% thiệt hại là phía trước, 40% là cánh O/S trước, Bonnet và tấm biển phía trước.

    Trong khi xe hơi trở nên chắc chắn hơn và phức tạp hơn đối với những nhà sản xuất tạo ra dung kượng lớn. Sự đòi hỏi của khách hàng về các chi tiết kỷ thuật gia tăng bao gồm độ bền và sự chịu đựng độ ăn mòn đã dẫn đến gia tăng việc sử dụng chất dẻo, hợp kim và sự bảo vệ được mạ kẽm. Việc sửa chữa lại các vật liệu này sẽ có những vấn đề riêng của nó, nhưng nhu cầu về sơn thì vẫn còn.

     

    CHÚNG TA CÓ THỂ MONG CHỜ ĐIỀU GÌ TỪ TƯƠNG LAI:

    Có hai khu vực chính sẽ yêu cầu thay đổi:

    1)    Đòi hỏi quảng cáo tiếp thị để bán các sản phẩm khác nhau về xe hơi; màu khác nhau, hiệu quả đặc biệt v. v. và ai biết được điều gì sẽ mang lại.

    2)    Sức ép sinh thái học để tạo ra các sản phẩm với hoàn cảnh thân thiện hơn và chúng ta đã xem qui tắc 1151 đến từ hiệu lực ở Nam California mà nó đòi hỏi sự biến đổi trong các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) đến 3,5 1bs/gallon trong các phòng tái sản xuất vào tháng 1/1992 và theo các qui tắc EPA riêng của chúng ta.

    Vì thế xu hướng thật đó là sự thay đổi trong các dung môi hữu cơ di chuyển đến độ cứng cao hơn. Dùng các dung môi vô cơ (H2O) hay đồng thời bỏ đi tất cả các dung môi và sử dụng bột. Nhưng tại sao chúng ta giảm đi việc sử dụng các dung môi hữu cơ dễ bay hơi.

    Sau khi trái đất hình thành và mát lại, khí quyển được cho rằng không chứa Oxy và được chiếu rọi trong lượng bức xạ UV cao từ mặt trời. Sự sống được cho rằng được tạo thành hơn 10 mét dưới bề mặt của vòi hồ ứ đọng nước, 10 mét nước là cần thiết để lọc sự bức xạ UV mà nó sẽ hủy hoại các tế bào do sự phá vỡ các nhánh hóa học. Khi mức độ Oxy gia tăng thì Ozone O3 có thể được tạo nên ở khí quyển trên cao mà nó hấp thụ sự bức xạ UV và cho phép sự sống tạo thành nổi lên khỏi lớp nước che chở. Mức độ khí đốt được cân bằng tốt đẹp. Thời gian đóng băng được cho rằng có liên quan đến thời gian sản xuất Oxy và thay đổi Carbon Dioxide do các quá trình trên trái đất và sự gia tăng mới đây của Carbon Dioxyt có thể dẫn đến việc làm ấm trái đất.

    Trong quá trình này, các lý do nào kiểm soát các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi mà trong đó việc kinh doanh sơn được bao bọc bởi hành động bảo vệ môi trường? Hầu hết được biết những vấn đề kế tiếp của các chất ô nhiễm đã tỏa ra mùi trong khí quyển gây nên sương mù ở Log Angeles và những hiểu biết về nguyên nhân, ảnh hưởng. Điều chú ý rằng tất cả các thành phố chính chịu đựng những ảnh hưởng ô nhiễm tương tự, đặc biệt với việc sử dụng xe môtô loại cao. Nhiều người đã chịu đựng những vấn đề y học tử sương mù LonDon, từ việc đốt cháy lượng than đá trước hoạt động làm sạch không khí và sử dụng các nhiên liệu không có khói.

    Có một vài nhân tố dẫn đến việc tạo ra sương mù quang hóa. Phép đo vẽ địa hình mang tính chất địa phương ở Los Angeles thường là những kết quả trong không khí ấm nhẹ hơn nằm trên đỉnh không khí nặng lạnh hơn. Một tình huống rất ổn định được biết đến như “Sự nghịch chuyển nhiệt độ” với sự chuyển động không khí rất nhỏ, dẫn đến việc lột bỏ đi các chất ô nhiễm ở gần mức độ mặt đất. Những ngày nắng thường xuyên thì có mật độ sử dụng xe cao. Những gì được quan sát vào những ngày có sương mù thì đó là sự gia tăng Ozone O và Nitro Dioxyt NO2 hướng vào lúc trưa. Với sương mù màu đà làm kích thích mắt và hệ hô hấp và được biết là để hạn chế sự tăng trưởng cây trồng. Dưới những điều kiện khốc liệt, sự rèn luyện được khuyên là chống lại và những điều kiện đó cùng với sự rối loạn hô hấp đã có ở trong nhà. Những gì được bết rằng là các chất ô nhiễm ban đầu phản ứng cùng với ánh sáng mặt trời và các Hydro carbon không cháy, sự thoát khí xăng không cháy chủ yếu, nhưng các dung môi sơn và ngay cả dầu nguyên chất được chảy ra từ các cây thông tạo ra các chất ô nhiễm thứ hai.

    Nguồn ô nhiễm không khí phổ biến nhất từ hoạt động con người xảy ra là do sự đốt cháy các nhiên liệu hóa đá. Nhiệt độ cao của động cơ đốt cháy lên trong quá trình chuyển hóa Nitơ và Oxy khí quyển thành NO (chủ yếu NO), Nitrơ Oxyt, Carbon Monoxyt (CO) và các Hydro Carbon không cháy. Các chất ô nhiễm ban đầu cùng với không khí sau khi chịu sự thay đổi hóa học của sự chiếu rọi ánh sáng mặt trời với NO bị oxyt thành NO2 do vòng xúc tác và sự có mặt của các Hydro Carbon dẫn đến sự tạo thành Ozone O.

    Sự hình thành Ozone trong khí quyển cao hơn là cần thiết đối với con người, nhưng hình thành ở mức độ thấp dẫn đến các nguy hiểm sức khỏe và Perovyacetyl – Nitrate, PAN là các chất kích thích chính cho hệ hô hấp và mắt.

    Vấn đề ô nhiễm khí quyển được xem như là phòng tắm với vòi nước được mở và nút vặn. Trên 4 – 6 ngàn triệu năm trước đây sự cân bằng đã được thiết lập bởi 50 – 60 phản ứng hóa học được biết xảy ra trong khí quyển. Trên 200 năm trước đây chúng ta đã được biết tất cả vật liệu có trong khí quyển và chúng ta biết rất ít những ảnh hưởng nào có thể có trong tương lai. Chúng ta không biết nếu chúng ta có một lỗ nhỏ trong phòng tắm hay bất kỳ nơi nào chúng ta bị đá vào trong đó.

    Một điều là chắc chắn nếu chúng ta tiếp tục mở rộng sự ô nhiễm của chúng ta ở tỉ lệ hiện tại của nó. Việc thiêu đốt các vật liệu sống ở một tỉ lệ càng gia tăng và việc ô nhiễm hành tinh của chúng ta cũng ở tỉ lệ càng gia tăng thì khủng long sẽ cai trị hành tinh lâu hơn chúng ta.